Thực hiện tái cơ cấu chăn nuôi, các địa phương đã chọn được vùng và vật nuôi chủ lực của từng vùng để tập trung chỉ đạo, tạo mọi điều kiện cho chăn nuôi phát triển; đã xác định được cơ cấu vật nuôi hợp lý, phù hợp. Các địa phương có thế mạnh về chăn nuôi bò thịt như Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang đã sử dụng công thức nhân giống bò lai giữa các giống Red Angus, Black Angus, Charolaire, Drought master… mang lại hiệu quả cao.
Đối với lĩnh vực lâm nghiệp, các địa phương đã rà soát, hoàn thiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng để xác định rừng sản xuất tập trung, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng từ đó có kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao năng suất và giá trị rừng; xác định diện tích rừng chuyển đổi mục đích sử dụng; đồng thời ứng phó tốt hơn với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, kế hoạch phát triển rừng ngập mặn cũng được các địa phương quan tâm thực hiện.
Để thực hiện tái cơ cấu, công tác quy hoạch nuôi trồng, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã được triển khai thực hiện. Căn cứ vào kết quả điều tra nguồn lợi thủy sản, số lượng tàu thuyền và năng lực khai thác hiện có, Bộ đã xác định số tàu cần đóng mới và đã phân bổ cho 7 tỉnh ven biển trong vùng đóng mới và nâng cấp 376 tàu cá xa bờ theo qui định tại Nghị định số 67/2014/NĐ-CP. Các tỉnh đã triển khai nhiều mô hình ứng dụng tiến bộ trong khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu cá xa bờ như ứng dụng lưới rê hỗn hợp tại Trà Vinh, lưới rê đáy tại Tiền Giang, lưới chụp mực 4 tăng gông tại Cà Mau, thiết bị phân loại cá tại Kiên Giang, hầm bảo quản trên tàu tại Kiên Giang, Tiền Giang… Các tiến bộ kỹ thuật này đã góp phần tăng năng suất, hiệu quả khai thác và giảm tổn thất sau thu hoạch cho các tàu khai thác xa bờ. Đã triển khai thí điểm và thiết lập 02 khu bảo vệ nguồn giống tự nhiên tại Bến Tre và Kiên Giang nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi hải sản tại các vùng biển; đồng thời phối hợp với các tổ chức quốc tế (FAO, WWF…) triển khai các dự án thí điểm quản lý nghề lưới kéo và nghề lưới rê ghẹ vùng biển Kiên Giang theo hướng bền vững, đạt tiêu chuẩn quản lý quốc tế.
Nuôi tôm nước lợ và cá tra đã được xác định là hai đối tượng nuôi chủ lực của vùng. Các địa phương đã chủ động được nguồn giống chất lượng phục vụ cho sản xuất trong vùng. Toàn vùng có 626.661 ha nuôi tôm (chiếm 93,0% về diện tích nuôi tôm của cả nước) và đạt sản lượng 475.049 tấn (chiếm 84,4% sản lượng tôm nước lợ của cả nước). Cơ cấu tỷ lệ nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng có sự dịch chuyển trong những năm gần đây, tỷ lệ diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm sú tương ứng là 12,5% và 87,5%, trong khi đó tỷ lệ về sản lượng tôm chân trắng và tôm sú tương ứng đạt 56,9% và 43,1% cho thấy sự đóng góp rất lớn của tôm chân trắng trong việc gia tăng sản lượng tôm nuôi.
Tái cơ cấu lĩnh vực Thủy lợi được Bộ xác định tập trung vào 5 vấn đề lớn: (1) Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi; (2) Phát triển tưới cho cây trồng cạn; (3) Phát triển thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản; (4) Nâng cao mức bảo đảm an toàn hồ chứa (5) Nâng cao năng lực phòng chống thiên tai. Đối với vùng ĐBSCL, các nhiệm vụ tái cơ cấu lĩnh vực thủy lợi đã được Bộ triển khai đến các địa phương, rà soát và điều chỉnh quy hoạch thủy lợi theo hướng đầu tư nhiều hơn cho thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản, thủy lợi tưới cho cây công nghiệp, nghiên cứu và xây dựng các mô hình tưới tiết kiệm các loại cây trồng cạn khác...
Qua hai năm triển khai thực hiện "Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, Bộ Nông nghiệp và PTNT, các bộ, ngành liên quan và các địa phương khu vực ĐBSCL đã nỗ lực triển khai thực hiện các nội dung và giải pháp tái cơ cấu theo Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các Đề án/Kế hoạch lĩnh vực và của địa phương, nên đã đạt được những kết quả bước đầu. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản phẩm được chuyển đổi theo nhu cầu thị trường hơn; đã hình thành được nhiều vùng nguyên liệu lúa gạo, trái cây và thủy sản tập trung, quy mô lớn lớn, sản xuất theo VietGAP, GlobalGAP.... Các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến, hiệu quả đang được phổ biến, đánh giá và nhân rộng./.